78 năm trước, ngày 2-9-1945, giữa Quảng trường Ba
Đình lịch sử vang lên lời Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước
tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Ảnh TL
Năm 1945, chàng thanh niên 19
tuổi, sau này là người lãnh đạo có uy tín và từng lãnh trọng trách người đứng đầu
TP.Sài Gòn - Gia Định một số thời kỳ, nhà thơ Hưởng Triều (Trần Bạch Đằng) đã
cảm xúc về ngày độc lập của dân tộc: “Xin chào cách mạng thành công/ Sài Gòn
như ngọn thác hồng đổ xuôi/ Ngàn năm có một ngày vui/ Đùng đùng chuyển đất rung
trời là đây/ Lưng chừng Thủ Ngữ cờ bay/ Miệng reo mà tưởng đang say mơ màng/
Nước này tên nước Việt Nam/ Chạy từ cửa ải Nam Quan chạy vào/ Cờ này nền đỏ
vàng sao/ Là cờ độc lập, tự hào, tự do…” (Chào cách mạng).
Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm
của dân tộc, cha ông chúng ta đã bao lần phải đứng lên chống ngoại xâm, giành
độc lập cho Tổ quốc. Có lẽ vì vậy mà dân tộc Việt Nam có rất nhiều bản hùng ca.
Chúng ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây những khúc ca khải hoàn ấy. Đó là bản hùng
ca của ngày chiến thắng quân Nguyên xâm lược: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/
Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông). Hay “Xã tắc từ đây vững
bền/ Giang sơn từ đây đổi mới” (Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo”…
Hẳn nhiên, thắng lợi càng nhiều thì khổ đau càng lớn, thế nhưng khát vọng lớn
nhất của dân tộc Việt Nam vẫn là khát vọng hòa bình, vậy nên “Dẫu thân mình có
phải hy sinh/ Cũng chỉ vì trường xuân cho đất Việt” (Phạm Thị Xuân Khải - Mùa
xuân nhớ Bác).
Nửa cuối thế kỷ XIX, nước Việt
Nam đang yên lành bỗng một cơn gió lạ từ đâu thổi tới mang theo mùi khói súng
khét lẹt: “Một xã hội suốt mấy nghìn năm kéo dài một cuộc sống gần như không
thay đổi, về hình thức cũng như về tinh thần… Nhưng, nhất đán, một cơn gió mạnh
bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ
phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế
kỷ” (Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam).
Năm 1858, thực dân Pháp xâm
lược Việt Nam. Năm 1884, với Hòa ước Patenôtre, nước Việt Nam hoàn toàn nằm
trong tay người Pháp đô hộ. Sĩ khí của bao lớp cha ông anh hùng làm sao chống
nổi vũ khí tối tân của quân thù. Thế rồi lớp vào tù, lớp ra pháp trường ròng rã
hơn 80 năm, hơn 80 năm là hơn 4 thế hệ. Còn nỗi đau, nỗi nhục nào lớn hơn.
Vì những khổ đau chất chứa hơn
80 năm ấy nên ngày 2-9-1945, cả dân tộc đã mừng vui đón chào ngày độc lập. Cũng
giống như nhà thơ Hưởng Triều, một nhà cách mạng lớn ở Sài Gòn, ở Nam bộ là
Nguyễn Văn Nguyễn, Ủy viên Xứ ủy Nam bộ đã cảm tác về ngày vui đặc biệt này:
“Dưới cảnh trời lộng mây, làn sóng triệu triệu người cuồn cuộn chảy vào đô thị.
Chiến tranh vừa chấm dứt. Nhân loại thở hồi dài. Người nô lệ đi ra đường. Cỏ
cây, đất nước được giải phóng. Một tác phẩm xuất hiện. Không phải công trình vô
vi của anh hùng cô độc. Một tác phẩm của nhân dân, làm bằng máu thịt của nhân
dân, anh hùng là nhân dân”.
Ngày 30-8-1945, trong Chiếu
thoái vị để trao quyền cho Chính phủ dân chủ cộng hòa, vua Bảo Đại đã viết:
“Riêng Trẫm trong 20 năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay.
Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước độc lập, quyết không để ai lợi
dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của hoàng gia mà lung lạc quốc dân
nữa”.
Lâu nay, cứ đến ngày này, lại
xuất hiện những bài viết xuyên tạc với dụng ý xấu, trong đó có quan điểm cho
rằng không cần có cuộc Cách mạng Tháng Tám rồi Việt Nam cũng sẽ giành được độc
lập. Đó không chỉ là những luận điệu xuyên tạc mà còn vô ơn đối với các thế hệ
cha ông. Hãy nhìn lại lịch sử Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp đô hộ, họ đã
làm gì cho đất nước chúng ta. Xin đừng kể cầu Long Biên, cầu Trường Tiền, cầu
Bình Lợi, xin đừng kể đường sắt Bắc - Nam… Lịch sử luôn luôn vận động, biến đổi
không ngừng theo chiều hướng tiến bộ và sự vật sau bao giờ cũng hoàn thiện hơn
sự vật trước, đó là lẽ thường. Hơn 80 năm đô hộ, nếu thực dân Pháp chỉ làm
được từng ấy cho Việt Nam, thử hỏi có đáng được ngợi ca? Đó là chưa kể, trong
từng sự việc cụ thể đều có những câu chuyện riêng lắt léo ẩn sau đó. Tất cả các
công trình được xem là công lao của thực dân Pháp nêu trên được xây dựng dưới
thời Toàn quyền Paul Doumer (1897-1902).
Một học giả đất Nam bộ là Vương
Hồng Sển, người từng làm Thư ký Phủ Thống đốc Nam kỳ, người tuyên bố đã biết
gần đủ mặt các Toàn quyền, Thống đốc của người Pháp, trong tác phẩm Dỡ
mắm cho rằng, trong tất cả những vị toàn quyền Đông Dương, ông đều
“bốc… xong đi rửa tay”, chỉ riêng một người ông “bốc thơm”, đó là Toàn quyền
Paul Doumer. Vậy, với những công trình nêu trên mà thực dân Pháp làm cho Việt
Nam chẳng qua cũng nhờ đức tính tốt của quan Toàn quyền Paul Doumer chứ đâu
phải chủ trương chung của chính phủ thực dân khi ấy?
“Thuở nô lệ thân ta nước mất/
Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm/ Một đời đau suốt trăm năm/ Chim treo trên lửa cá
nằm dưới dao/ Giặc cướp hết non cao biển rộng/ Cướp cả tên nòi giống tổ tiên/
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền/ Núi sông một khúc ruột liền chia ba” (Tố Hữu). Đó
là tình cảnh của dân tộc Việt Nam khi mất nước. Hơn 80 năm đô hộ, thực dân Pháp
đã làm gì cho dân tộc chúng ta? Họ đã đẩy biết bao người Việt thành những anh
Pha, chị Dậu, lão Hạc…
Trong Tuyên ngôn độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của
ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư
luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho
nòi giống ta suy nhược…”.
Đó là tình cảnh của nhân dân
Việt Nam “được” cai trị bởi những nhà “khai sáng văn minh” đến từ đất nước đã
ra đời câu tuyên ngôn nổi tiếng “Tự do - bình đẳng - bác ái”. Tự xưng là bảo hộ
nước Việt Nam, tự xưng là nước “mẹ” đại Pháp, vậy mà ngày 9-3-1945, sau tiếng
súng đảo chính của phát xít Nhật, “mẹ” đã chạy dài để rồi sau đó quay trở lại
cấu kết với phát xít Nhật bóc lột dân ta. Thảm họa hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam
chết đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 là tội ác mà “trời không dung, đất không
tha”.
Thậm chí, Tổng trưởng Nội các
Đế quốc Việt Nam là Trần Trọng Kim (Chính phủ Trần Trọng Kim) trong hồi
ký Một cơn gió bụi đã than phiền rằng, mặc dù làm Thủ tướng
nhưng ông cũng không có toàn quyền quyết định mà đều phải xin ý kiến quyết định
từ người Nhật. Chính cụ Trần Trọng Kim đã nhìn ra bản chất thật của phát xít
Nhật nên đã viết trong hồi ký: “Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng
nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp” nhưng thâm ý là
muốn thu hết quyền lợi về mình”.
Không phải sau ngày 2-9-1945,
người Pháp đã chịu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Sài Gòn và Nam bộ chỉ
được hưởng nền độc lập đúng 21 ngày để rồi cả miền Nam, cả dân tộc lại bước vào
cuộc chiến đấu mới. Thực dân Pháp vẫn âm mưu quay trở lại đô hộ Việt Nam một
lần nữa và họ đã dựng lên chính phủ với tên gọi là “Nam Kỳ quốc” với Thủ tướng
là bác sĩ Nguyễn Văn Thinh.
Và đây là những dòng trong hồi
ký của nhà báo Nam Đình, Đổng lý Văn phòng Bộ Tư pháp Chính phủ Trần Trọng Kim:
“Chính phủ Thinh không hoạt động được gì, vì Pháp không cho họ một chút quyền
nào. Còn các bộ trưởng thì lại là… bù nhìn của 2 người Pháp làm đổng lý văn
phòng và chủ sự! Mọi việc gì cũng do đổng lý và chủ sự Pháp định đoạt (…). Thậm
chí, muốn xin một cây súng lục cho đổng lý văn phòng, bác sĩ Thinh phải tự mình
đến bót mật thám ở Catinat mà xin và phải ngồi chờ chủ sự Pháp, cũng như thường
dân đi xin giấy tờ vậy! Thương hại thay!”. Rất may, biết mình bị lừa và lợi
dụng, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh sau đó đã thắt cổ tự tử.
Tiếp nối truyền thống, khát
vọng và quyết tâm của cha ông, ngày 2-9-1945, trong Tuyên ngôn độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”.
TS Vũ
Trung Kiên-Báo Đồng Nai